NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC TẬP TỐT NGHIỆP CHO SINH VIÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC
- Thứ năm - 03/03/2022 05:32
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Thực tập” là một học phần không thể thiếu đối với mỗi sinh viên dù ở bất kỳ ngành học nào bởi những lợi ích mà quá trình thực tập này mang lại cho sinh viên. Để thu hẹp khoảng cách giữa chương trình đào tạo và thực tiễn làm việc, đồng thời giúp sinh viên vận dụng các lý thuyết đã học vào thực tập, những năm qua, khoa Du lịch và Ngoại ngữ trường Đại học Sao Đỏ luôn chú trọng quan tâm và không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng thực tập tốt nghiệp cho sinh. Tuy nhiên không phải bất cứ sinh viên nào sau khi hoàn thành quá trình thực tập tại đơn vị, mang về một báo cáo tốt, đạt được điểm số cao cũng đồng nghĩa với việc sinh viên đó đã thực sự trải qua môi trường thực tế doanh nghiệp, có cơ hội áp dụng các kiến thức đã học và sẽ không bỡ ngỡ khi cầm tấm bằng tốt nghiệp để đi tìm việc làm. Trên thực tế, tỷ lệ sinh viên tìm được nơi thực tập thật sự hiệu quả là rất thấp. Xuất phát từ thực trạng này, cùng với mong muốn được giúp khoa và nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo cũng như giúp sinh viên gắn kết nhiều hơn nữa giữa lý thuyết và thực tế, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực tập tốt nghiệp của sinh viên ngành Việt Nam học gắn với thực tiễn.
1. Thực trạng quy trình thực tập tốt nghiệp tại khoa Du lịch và Ngoại ngữ
1.1. Khái quát chung về hoạt động thực tập tốt nghiệp
“Thực tập” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là: tập làm trong thực tế để vận dụng và củng cố kiến thức lý thuyết, trau dồi thêm về nghiệp vụ. Thực tập tốt nghiệp được hiểu là tập quan sát các hành động thực tế để so sánh đối chiếu với lý thuyết được học ở trường rồi phân tích dựa trên một trường hợp cụ thể ứng dụng vấn đề lý thuyết đó.
Riêng với khoa Du lịch và Ngữ, thống nhất với mục tiêu chiến lược chung của Nhà trường, mục tiêu của hoạt động thực tập tốt nghiệp được áp dụng đối với sinh viên chính quy của ngành Việt Nam học là nhằm gắn kết chặt chẽ quá trình giảng dạy và học tập với hoạt động thực tiễn, tạo nên một quy trình đào tạo có tính thực hành và liên kết cao. Quá trình thực tập của sinh viên gắn liền với doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ tham gia vào quá trình đánh giá, bồi dưỡng và đào tạo thêm cho sinh viên về mặt kiến thức thực tế.
Với đặc thù ngành học, sinh viên thường chọn nơi thực tập là sở, ban, ngành về văn hóa du lịch như Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Phòng Văn hóa, Hiệp hội du lịch và các công ty lữ hành, khách sạn, các Ban quản lý, các tàu du lịch...để làm nơi thực tập của mình. Việc chọn thực tập về mảng văn hóa hay du lịch phụ thuộc vào hoàn cảnh khách quan như thuận tiện đi lại, phục vụ đề tài của sinh viên, bản thân sinh viên yêu thích lĩnh vực nào thì lựa chọn. Các thông tin về cơ sở thực tập được sinh viên lựa chọn qua thông tin đại chúng, từ thầy cô, bạn bè kinh nghiệm của anh chị đi trước. Tuy nhiên, qua tìm hiểu vẫn thấy còn một bộ phận không nhỏ sinh viên thực tập tại cơ sở không đúng như nguyện vọng ban đầu, do những lí do cơ sở thực tập không nhân do đủ số lượng, do hoàn cảnh ăn ở không thuận tiện, sinh viên thay đổi nguyện vọng...
Qua tìm hiểu các khóa sinh viên thực tập từ Đại học khóa 3,4,5 và DHLT khóa 7 về quá trình thực tập của sinh viên tôi nhận thấy sinh viên đa phần có thái độ tích cực với quá trình thực tập.. Thái độ của sinh viên trong quá trình thực tập là nghiêm túc, vì các sinh viên cho rằng quá trình thực tập sẽ giúp sinh viên hoàn thiện kiến thức chuyên môn, củng cố các mối quan hệ và nâng cao kỹ năng giáo tiếp, va chạm với thực tế nghề nghiệp. Hầu hết 90% các đơn vị thực tập đều tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội thực tập tại đơn vị mình. Theo như ý kiến đánh giá của sinh viên thì hầu hết các bạn được thực tập giao việc phù hợp, sinh viên yêu thích công việc, được trả thù lao nếu có đóng góp cho công việc. Một bộ phận sinh viên cũng chưa hài lòng với công việc thực tập do chưa được giao đúng việc, còn làm nhiệm vụ văn phòng. Bên cạnh những sinh viên tích cực đi thực tập thì cũng có những sinh viên chỉ đăng ký đơn vị thực tập sau đó đến xin dấu và không tích cực với quá trình thực tập tỏ thái độ thờ ơ, bàng quan...
2.2. Nhận xét chung về quá trình thực tập tốt nghiệp của sinh viên ngành Việt Nam học
2.2.1. Ưu điểm
Về phía sinh viên: Sinh viên là người được hưởng lợi nhiều nhất từ quá trình thực tập tốt nghiệp này. Trước tiên, sinh viên có cơ hội chính thức được cọ xát với môi trường làm việc cụ thể, được áp dụng những kiến thức học được ở trường vào thực tế, có cơ hội chứng tỏ bản thân với đơn vị thực tập và có cơ hội tìm được việc làm ngay khi kết thúc đợt thực tập. Đây là cơ hội tốt, cho sinh viên tích lũy kinh nghiệm cho nghề nghiêp sau này và tìm kiếm tài liệu để viết báo cáo thực tập hoặc viết khóa luận tốt nghiệp. Quy trình thực tập tốt nghiệp mà khoa và Nhà trường đang áp dụng rõ ràng, đơn giản, thuận tiện với từng mốc thời gian cụ thể khiến sinh viên có thể theo dõi và làm theo từng bước một cách dễ dàng. Quy trình này cũng tạo tính chủ động cho sinh viên khi cho phép sinh viên được tự liên hệ đơn vị thực tập, tự mang giấy giới thiệu đến đơn vị thực tập…
Về phía giáo viên: Đây là cơ hội để giáo viên trong Khoa được tiếp xúc riêng với sinh viên, hướng dẫn các em cách viết bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, đôn đốc nhắc nhở sinh vien những thiếu sót cần được hoàn thiện để tự trang bị cho mình hành trang khi tốt nghiệp. Quy trình như hiện nay của nhà trường yêu cầu phải có giảng viên cùng tham gia hướng dẫn sinh viên trong quá trình thực tập tốt nghiệp, cho phép giáo viên được linh hoạt trong cách quản lý, hướng dẫn và chấm điểm sinh viên. Có những nhìn nhận chính xác về quá trình thực tập tốt nghiệp
Về phía đơn vị tiếp nhận thực tập tôt nghiệp: Quy trình hiện nay cho phép sinh viên có thể tự đến liên hệ với doanh nghiệp. Với thời gian thực tập 4 tuần tại doanh nghiệp, đây sẽ là cơ hội để doanh nghiệp tìm kiếm nguồn nhân lực tiềm năng, có thể tuyển dụng vào làm ngay trước khi các em tốt nghiệp để làm chính thức. Doanh nghiệp sẽ có hướng đào tạo bổ sung cần thiết kết hợp giữa lý thuyết trong nhà trường với thực tế ngoài doanh nghiêp.
2.3.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, quy trình thực tập tốt nghiệp hiện nay còn tồn tại khá nhiều nhược điểm, thể hiện qua phần khảo sát các đợt thực tập của các khóa với 3 nhóm đối tượng có liên quan trực tiếp là sinh viên, giáo viên hướng dẫn và đơn vị tiếp nhận thực tập. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, một giáo viên được phân công hướng dẫn quá nhiều sinh viên, đặc biệt là các giáo viên kiêm nhiệm dẫn đến tình trạng có những sinh viên không gặp mặt trực tiếp giáo viên hướng dẫn lần nào, chỉ liên hệ qua điện thoại hoặc thư điện tử nên hiệu quả công việc không như kỳ vọng.
Thứ hai, việc chỉ có một giáo viên chấm có thể gây ra tình trạng chấm điểm không khách quan, công bằng giữa các sinh viên trong một nhóm.
Thứ ba, bài báo cáo chỉ cần có xác nhận của đơn vị thực tập là sinh viên đã đến thực tập, không có xác nhận về nội dung trong bài báo cáo khiến cho bài báo cáo không bị áp lực của việc buộc phải viết đúng sự thực, do đó làm giảm ý nghĩa thực tế của đợt thực tập.
Thứ tư, việc Nhà trường và giáo viên hướng dẫn chưa kiểm soát kỹ nơi thực tập, nhiều khi chỉ cần có nơi tiếp nhận là được đã khiến nhiều sinh viên đi thực tập ở những đơn vị ít hoặc không có liên quan đến chuyên môn mình được học, do đó, không phục vụ cho mục đích của đợt thực tập tốt nghiệp.
3.2 Một số đề xuất khác nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực tập tốt nghiệp của sinh viên ngành VNH
3.2.1 Về phía Nhà trường
Thứ nhất, để sinh viên thực tập thành công, điều căn bản nhất là chương trình đào tạo trong nhà trường cần được xây dựng có chất lượng, gắn liền với thực tiễn nghề nghiệp. Có một thực tế là hiện nay, các đơn vị sử dụng lao động phần lớn đều phải tái đào tạo nhân viên là sinh viên mới ra trường. Kiến thức sinh viên được học trên giảng đường đa phần nặng tính lý thuyết, ít được thực hành, ít được rèn luyện kỹ năng, ít được cập nhật các tri thức mới đi liền với sự phát triển của các ngành nghề. Điều này khiến sinh viên gặp không ít khó khăn, lúng túng khi tiếp cận với công việc, nhất là trong thời gian thực tập. Để biết được những hạn chế của chương trình đào tạo, Nhà trường nên tổ chức lấy ý kiến phản hồi của các cơ quan, doanh nghiệp. Những ý kiến này thường rất thiết thực, giúp Nhà trường hiểu được nhu cầu của thị trường lao động, nhằm trang bị kiến thức cho sinh viên. Có thể lấy phản hồi bằng nhiều cách như tổ chức hội thảo, tổng hợp thông tin thông qua bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp…
Thứ hai, Nhà trường có thể thành lập một Trung tâm hỗ trợ nơi thực tập tại các Doanh nghiệp cho sinh viên. Trung tâm trước hết là nơi có thể cung cấp các nguồn thông tin cho những em sinh viên khó khăn trong việc tiếp cận đơn vị thực tập. Ngoài ra, Trung tâm còn là cầu nối để doanh nghiệp phản hồi chất lượng đào tạo của Nhà trường, cũng là nơi cung cấp các ý kiến phản hồi của doanh nghiệp cho các Khoa chuyên môn.
Thứ ba, nếu có thể, Nhà trường nên tăng tiền bồi dưỡng hướng dẫn thực tập giữa khóa cho giáo viên hướng dẫn. Đây là sự khích lệ cần thiết bởi giáo viên hướng dẫn cũng phải đầu tư nhiều hơn khi giúp sinh viên nâng cao tính thực tế qua hoạt động thực tập.
3.2.2 Về phía sinh viên:
Bản thân mỗi sinh viên phải nhận thức được rằng mỗi kỳ thực tập rất quan trọng đối với tương lai của mình. Vì thế, sinh viên cần phải cố gắng hết sức để bắt kịp công việc, không phải chỉ để đối phó lấy một bản nhận xét tốt. Và để có thể làm việc tốt, sinh viên cần có kiến thức vững vàng. Điều này cần phải được trau dồi trong suốt quá trình học tập của sinh viên trước đó. Muốn vậy, nhà trường, giáo viên cần củng cố ý thức này cho sinh viên ngay từ khi mới bước chân vào trường chứ không phải chỉ trước kỳ thực tập.
Sinh viên cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm đơn vị cũng như vị trí thực tập phù hợp với chuyên ngành học. Việc tìm kiếm này không phải cứ đợi đến sát thời kỳ thực tập mới tiến hành tìm hiểu mà nên lưu tâm từ trước đó một thời gian đủ dài. Mỗi sinh viên nên luôn có ý thức chấp hành tốt nội quy đơn vị đi thực tập, cũng như những quy định của giáo viên hướng dẫn, luôn có tinh thần học hỏi và cầu tiến.
Đối với nội dung bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, khuyến khích sinh viên nên tự tìm tòi, phân tích, đặc biệt là những chủ đề mới lạ trong doanh nghiệp. Sinh viên không nên lệ thuộc quá nhiều vào những bài báo cáo có sẵn tại đơn vị thực tập rồi đem “xào nấu”, copy lại và nộp cho giáo viên hướng dẫn.
3.2.3 Đối với giáo viên hướng dẫn
Các giảng viên tự học tập và bồi dưỡng để không ngừng nâng cao năng lực của bản thân. Bên cạnh việc hoàn thiện năng lực chuyên môn, các giảng viên cũng cần bồi dưỡng thêm về năng lực nghiên cứu, mỗi bài cáo cáo là một sản phẩm khoa học, mỗi giáo viên là một người hướng dẫn khoa học nên để giúp các em hoàn thành tốt bài báo cáo thì người hướng dẫn cần phải tự trau dồi các phương pháp nghiên cứu. Giáo viên hướng dẫn cần có sự cải tiến trong nội dung bài báo cáo hướng tới nâng cao tính thực tiễn, ứng dụng đối với sinh viên.
Để gắn kết thực tiễn với chuyên ngành giảng dạy, mỗi giáo viên hướng dẫn cần tiếp cận nhiều hơn với doanh nghiệp. Khi giáo viên đi thực tế sẽ thu thập được nhiều thông tin, nhiều nội dung để có thể truyền đạt lại cho sinh viên qua giờ lên lớp, chia sẻ với sinh viên trong quá trình hướng dẫn. Qua việc đi thực tế tại doanh nghiệp, giáo viên sẽ có thể tổng hợp thông tin và viết thành các case study dung cho giảng dạy và nghiên cứu. Bên cạnh việc hoàn thiện về chuyên môn, bổ sung kiến thức thực tế thì mỗi giảng viên cần nhiệt tình hơn nữa với sinh viên.
3.2.4 Đối với các doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp đã đồng ý tiếp nhận sinh viên đến thực tập thì cũng cần có sự quản lý chặt chẽ hơn như cử một cán bộ phụ trách theo dõi quá trình thực tập để chấm dứt tình trạng sinh viên muốn đến hoặc muốn đi tùy thích rồi cuối thời gian đến lấy dấu xác nhận và đạt yêu cầu. Doanh nghiệp cần duy trì, phối hợp thường xuyên với nhà trường để gắn kết tính thực tiễn cho quá trình thực tập của sinh viên.
4. Kết luận
Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục lại có nguyên lý “học đi đôi với hành”, bởi lẽ “học” mà không “hành” thì việc “học” sẽ trở nên vô ích, việc thực hành sẽ giúp chúng ta nâng cao chất lượng của việc “học”. Nhìn chung, hoạt động thực tập là một chủ trương đúng đắn của Nhà trường vì nó tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận với thực tế công việc, giúp sinh viên không những củng cố các kiến thức đã học mà còn rèn luyện tác phong làm việc và các kỹ năng mềm cần thiết khi ra trường.
Không ai phủ nhận sự đúng đắn của chủ trương này nhưng thực hiện làm sao có hiệu quả lại cần đến một sự nỗ lực và phối kết hợp từ phía Nhà trường, từ phía doanh nghiệp và từ chính bản thân sinh viên. Bài báo đã chỉ ra được những ưu điểm và khó khăn, hạn chế trong quy trình thực tập giữa khóa của Trường đại học Ngoại thương, qua đó, đề xuất một số thay đổi để hoàn thiện hơn quy trình thực tập giữa khóa theo hướng gắn liền với thực tiễn. Những đề xuất của bài báo có thể chưa thật sự là giải pháp tốt nhất nhưng nhóm tác giả cũng hy vọng những giải pháp, những đề xuất này sẽ giúp nhà trường giải quyết được một số khó khăn nhất định và mong rằng nhà trường không chỉ đưa vào áp dụng cho thực tập giữa khóa mà sẽ đưa vào triển khai đối với cả thực tập tốt nghiệp để hoàn thiện một cách có hệ thống.
Tài liệu tham khảo
1. Báocáo Sự phát triển của Hệ thống Giáo dục Đại học, Các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo ngày 29/10/2009.
2. Nguyễn Thị Huệ, “ Giải pháp nâng cao chất lượng thực tập của sinh viên khối ngành kinh tế”, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, 2011.
3. Nguyễn Thúy Phương, “Đề xuất một số biện pháp khắc phục khó khăn trong hướng dẫn sinh viên tham gia kiến tập và thực tập tốt nghiệp”, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, 2011.
4. Lập kế hoạch để đạt được hiệu quả đối với việc tuyển thực tập sinh, Tạp chí HR Focus, Tháng 9/2005, ABI/INFORM Global, trang 7.
5. Castillo, D.E, Khuyến khích sinh viên thực tập tích cực làm việc, Tạp chí Business Mexico, tháng 3/2004, ABI/INFORM Global, trang
1.1. Khái quát chung về hoạt động thực tập tốt nghiệp
“Thực tập” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là: tập làm trong thực tế để vận dụng và củng cố kiến thức lý thuyết, trau dồi thêm về nghiệp vụ. Thực tập tốt nghiệp được hiểu là tập quan sát các hành động thực tế để so sánh đối chiếu với lý thuyết được học ở trường rồi phân tích dựa trên một trường hợp cụ thể ứng dụng vấn đề lý thuyết đó.
Riêng với khoa Du lịch và Ngữ, thống nhất với mục tiêu chiến lược chung của Nhà trường, mục tiêu của hoạt động thực tập tốt nghiệp được áp dụng đối với sinh viên chính quy của ngành Việt Nam học là nhằm gắn kết chặt chẽ quá trình giảng dạy và học tập với hoạt động thực tiễn, tạo nên một quy trình đào tạo có tính thực hành và liên kết cao. Quá trình thực tập của sinh viên gắn liền với doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ tham gia vào quá trình đánh giá, bồi dưỡng và đào tạo thêm cho sinh viên về mặt kiến thức thực tế.
Với đặc thù ngành học, sinh viên thường chọn nơi thực tập là sở, ban, ngành về văn hóa du lịch như Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch, Phòng Văn hóa, Hiệp hội du lịch và các công ty lữ hành, khách sạn, các Ban quản lý, các tàu du lịch...để làm nơi thực tập của mình. Việc chọn thực tập về mảng văn hóa hay du lịch phụ thuộc vào hoàn cảnh khách quan như thuận tiện đi lại, phục vụ đề tài của sinh viên, bản thân sinh viên yêu thích lĩnh vực nào thì lựa chọn. Các thông tin về cơ sở thực tập được sinh viên lựa chọn qua thông tin đại chúng, từ thầy cô, bạn bè kinh nghiệm của anh chị đi trước. Tuy nhiên, qua tìm hiểu vẫn thấy còn một bộ phận không nhỏ sinh viên thực tập tại cơ sở không đúng như nguyện vọng ban đầu, do những lí do cơ sở thực tập không nhân do đủ số lượng, do hoàn cảnh ăn ở không thuận tiện, sinh viên thay đổi nguyện vọng...
Qua tìm hiểu các khóa sinh viên thực tập từ Đại học khóa 3,4,5 và DHLT khóa 7 về quá trình thực tập của sinh viên tôi nhận thấy sinh viên đa phần có thái độ tích cực với quá trình thực tập.. Thái độ của sinh viên trong quá trình thực tập là nghiêm túc, vì các sinh viên cho rằng quá trình thực tập sẽ giúp sinh viên hoàn thiện kiến thức chuyên môn, củng cố các mối quan hệ và nâng cao kỹ năng giáo tiếp, va chạm với thực tế nghề nghiệp. Hầu hết 90% các đơn vị thực tập đều tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội thực tập tại đơn vị mình. Theo như ý kiến đánh giá của sinh viên thì hầu hết các bạn được thực tập giao việc phù hợp, sinh viên yêu thích công việc, được trả thù lao nếu có đóng góp cho công việc. Một bộ phận sinh viên cũng chưa hài lòng với công việc thực tập do chưa được giao đúng việc, còn làm nhiệm vụ văn phòng. Bên cạnh những sinh viên tích cực đi thực tập thì cũng có những sinh viên chỉ đăng ký đơn vị thực tập sau đó đến xin dấu và không tích cực với quá trình thực tập tỏ thái độ thờ ơ, bàng quan...
2.2. Nhận xét chung về quá trình thực tập tốt nghiệp của sinh viên ngành Việt Nam học
2.2.1. Ưu điểm
Về phía sinh viên: Sinh viên là người được hưởng lợi nhiều nhất từ quá trình thực tập tốt nghiệp này. Trước tiên, sinh viên có cơ hội chính thức được cọ xát với môi trường làm việc cụ thể, được áp dụng những kiến thức học được ở trường vào thực tế, có cơ hội chứng tỏ bản thân với đơn vị thực tập và có cơ hội tìm được việc làm ngay khi kết thúc đợt thực tập. Đây là cơ hội tốt, cho sinh viên tích lũy kinh nghiệm cho nghề nghiêp sau này và tìm kiếm tài liệu để viết báo cáo thực tập hoặc viết khóa luận tốt nghiệp. Quy trình thực tập tốt nghiệp mà khoa và Nhà trường đang áp dụng rõ ràng, đơn giản, thuận tiện với từng mốc thời gian cụ thể khiến sinh viên có thể theo dõi và làm theo từng bước một cách dễ dàng. Quy trình này cũng tạo tính chủ động cho sinh viên khi cho phép sinh viên được tự liên hệ đơn vị thực tập, tự mang giấy giới thiệu đến đơn vị thực tập…
Về phía giáo viên: Đây là cơ hội để giáo viên trong Khoa được tiếp xúc riêng với sinh viên, hướng dẫn các em cách viết bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, đôn đốc nhắc nhở sinh vien những thiếu sót cần được hoàn thiện để tự trang bị cho mình hành trang khi tốt nghiệp. Quy trình như hiện nay của nhà trường yêu cầu phải có giảng viên cùng tham gia hướng dẫn sinh viên trong quá trình thực tập tốt nghiệp, cho phép giáo viên được linh hoạt trong cách quản lý, hướng dẫn và chấm điểm sinh viên. Có những nhìn nhận chính xác về quá trình thực tập tốt nghiệp
Về phía đơn vị tiếp nhận thực tập tôt nghiệp: Quy trình hiện nay cho phép sinh viên có thể tự đến liên hệ với doanh nghiệp. Với thời gian thực tập 4 tuần tại doanh nghiệp, đây sẽ là cơ hội để doanh nghiệp tìm kiếm nguồn nhân lực tiềm năng, có thể tuyển dụng vào làm ngay trước khi các em tốt nghiệp để làm chính thức. Doanh nghiệp sẽ có hướng đào tạo bổ sung cần thiết kết hợp giữa lý thuyết trong nhà trường với thực tế ngoài doanh nghiêp.
2.3.2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, quy trình thực tập tốt nghiệp hiện nay còn tồn tại khá nhiều nhược điểm, thể hiện qua phần khảo sát các đợt thực tập của các khóa với 3 nhóm đối tượng có liên quan trực tiếp là sinh viên, giáo viên hướng dẫn và đơn vị tiếp nhận thực tập. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, một giáo viên được phân công hướng dẫn quá nhiều sinh viên, đặc biệt là các giáo viên kiêm nhiệm dẫn đến tình trạng có những sinh viên không gặp mặt trực tiếp giáo viên hướng dẫn lần nào, chỉ liên hệ qua điện thoại hoặc thư điện tử nên hiệu quả công việc không như kỳ vọng.
Thứ hai, việc chỉ có một giáo viên chấm có thể gây ra tình trạng chấm điểm không khách quan, công bằng giữa các sinh viên trong một nhóm.
Thứ ba, bài báo cáo chỉ cần có xác nhận của đơn vị thực tập là sinh viên đã đến thực tập, không có xác nhận về nội dung trong bài báo cáo khiến cho bài báo cáo không bị áp lực của việc buộc phải viết đúng sự thực, do đó làm giảm ý nghĩa thực tế của đợt thực tập.
Thứ tư, việc Nhà trường và giáo viên hướng dẫn chưa kiểm soát kỹ nơi thực tập, nhiều khi chỉ cần có nơi tiếp nhận là được đã khiến nhiều sinh viên đi thực tập ở những đơn vị ít hoặc không có liên quan đến chuyên môn mình được học, do đó, không phục vụ cho mục đích của đợt thực tập tốt nghiệp.
3.2 Một số đề xuất khác nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực tập tốt nghiệp của sinh viên ngành VNH
3.2.1 Về phía Nhà trường
Thứ nhất, để sinh viên thực tập thành công, điều căn bản nhất là chương trình đào tạo trong nhà trường cần được xây dựng có chất lượng, gắn liền với thực tiễn nghề nghiệp. Có một thực tế là hiện nay, các đơn vị sử dụng lao động phần lớn đều phải tái đào tạo nhân viên là sinh viên mới ra trường. Kiến thức sinh viên được học trên giảng đường đa phần nặng tính lý thuyết, ít được thực hành, ít được rèn luyện kỹ năng, ít được cập nhật các tri thức mới đi liền với sự phát triển của các ngành nghề. Điều này khiến sinh viên gặp không ít khó khăn, lúng túng khi tiếp cận với công việc, nhất là trong thời gian thực tập. Để biết được những hạn chế của chương trình đào tạo, Nhà trường nên tổ chức lấy ý kiến phản hồi của các cơ quan, doanh nghiệp. Những ý kiến này thường rất thiết thực, giúp Nhà trường hiểu được nhu cầu của thị trường lao động, nhằm trang bị kiến thức cho sinh viên. Có thể lấy phản hồi bằng nhiều cách như tổ chức hội thảo, tổng hợp thông tin thông qua bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp…
Thứ hai, Nhà trường có thể thành lập một Trung tâm hỗ trợ nơi thực tập tại các Doanh nghiệp cho sinh viên. Trung tâm trước hết là nơi có thể cung cấp các nguồn thông tin cho những em sinh viên khó khăn trong việc tiếp cận đơn vị thực tập. Ngoài ra, Trung tâm còn là cầu nối để doanh nghiệp phản hồi chất lượng đào tạo của Nhà trường, cũng là nơi cung cấp các ý kiến phản hồi của doanh nghiệp cho các Khoa chuyên môn.
Thứ ba, nếu có thể, Nhà trường nên tăng tiền bồi dưỡng hướng dẫn thực tập giữa khóa cho giáo viên hướng dẫn. Đây là sự khích lệ cần thiết bởi giáo viên hướng dẫn cũng phải đầu tư nhiều hơn khi giúp sinh viên nâng cao tính thực tế qua hoạt động thực tập.
3.2.2 Về phía sinh viên:
Bản thân mỗi sinh viên phải nhận thức được rằng mỗi kỳ thực tập rất quan trọng đối với tương lai của mình. Vì thế, sinh viên cần phải cố gắng hết sức để bắt kịp công việc, không phải chỉ để đối phó lấy một bản nhận xét tốt. Và để có thể làm việc tốt, sinh viên cần có kiến thức vững vàng. Điều này cần phải được trau dồi trong suốt quá trình học tập của sinh viên trước đó. Muốn vậy, nhà trường, giáo viên cần củng cố ý thức này cho sinh viên ngay từ khi mới bước chân vào trường chứ không phải chỉ trước kỳ thực tập.
Sinh viên cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm đơn vị cũng như vị trí thực tập phù hợp với chuyên ngành học. Việc tìm kiếm này không phải cứ đợi đến sát thời kỳ thực tập mới tiến hành tìm hiểu mà nên lưu tâm từ trước đó một thời gian đủ dài. Mỗi sinh viên nên luôn có ý thức chấp hành tốt nội quy đơn vị đi thực tập, cũng như những quy định của giáo viên hướng dẫn, luôn có tinh thần học hỏi và cầu tiến.
Đối với nội dung bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, khuyến khích sinh viên nên tự tìm tòi, phân tích, đặc biệt là những chủ đề mới lạ trong doanh nghiệp. Sinh viên không nên lệ thuộc quá nhiều vào những bài báo cáo có sẵn tại đơn vị thực tập rồi đem “xào nấu”, copy lại và nộp cho giáo viên hướng dẫn.
3.2.3 Đối với giáo viên hướng dẫn
Các giảng viên tự học tập và bồi dưỡng để không ngừng nâng cao năng lực của bản thân. Bên cạnh việc hoàn thiện năng lực chuyên môn, các giảng viên cũng cần bồi dưỡng thêm về năng lực nghiên cứu, mỗi bài cáo cáo là một sản phẩm khoa học, mỗi giáo viên là một người hướng dẫn khoa học nên để giúp các em hoàn thành tốt bài báo cáo thì người hướng dẫn cần phải tự trau dồi các phương pháp nghiên cứu. Giáo viên hướng dẫn cần có sự cải tiến trong nội dung bài báo cáo hướng tới nâng cao tính thực tiễn, ứng dụng đối với sinh viên.
Để gắn kết thực tiễn với chuyên ngành giảng dạy, mỗi giáo viên hướng dẫn cần tiếp cận nhiều hơn với doanh nghiệp. Khi giáo viên đi thực tế sẽ thu thập được nhiều thông tin, nhiều nội dung để có thể truyền đạt lại cho sinh viên qua giờ lên lớp, chia sẻ với sinh viên trong quá trình hướng dẫn. Qua việc đi thực tế tại doanh nghiệp, giáo viên sẽ có thể tổng hợp thông tin và viết thành các case study dung cho giảng dạy và nghiên cứu. Bên cạnh việc hoàn thiện về chuyên môn, bổ sung kiến thức thực tế thì mỗi giảng viên cần nhiệt tình hơn nữa với sinh viên.
3.2.4 Đối với các doanh nghiệp
Khi doanh nghiệp đã đồng ý tiếp nhận sinh viên đến thực tập thì cũng cần có sự quản lý chặt chẽ hơn như cử một cán bộ phụ trách theo dõi quá trình thực tập để chấm dứt tình trạng sinh viên muốn đến hoặc muốn đi tùy thích rồi cuối thời gian đến lấy dấu xác nhận và đạt yêu cầu. Doanh nghiệp cần duy trì, phối hợp thường xuyên với nhà trường để gắn kết tính thực tiễn cho quá trình thực tập của sinh viên.
4. Kết luận
Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục lại có nguyên lý “học đi đôi với hành”, bởi lẽ “học” mà không “hành” thì việc “học” sẽ trở nên vô ích, việc thực hành sẽ giúp chúng ta nâng cao chất lượng của việc “học”. Nhìn chung, hoạt động thực tập là một chủ trương đúng đắn của Nhà trường vì nó tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận với thực tế công việc, giúp sinh viên không những củng cố các kiến thức đã học mà còn rèn luyện tác phong làm việc và các kỹ năng mềm cần thiết khi ra trường.
Không ai phủ nhận sự đúng đắn của chủ trương này nhưng thực hiện làm sao có hiệu quả lại cần đến một sự nỗ lực và phối kết hợp từ phía Nhà trường, từ phía doanh nghiệp và từ chính bản thân sinh viên. Bài báo đã chỉ ra được những ưu điểm và khó khăn, hạn chế trong quy trình thực tập giữa khóa của Trường đại học Ngoại thương, qua đó, đề xuất một số thay đổi để hoàn thiện hơn quy trình thực tập giữa khóa theo hướng gắn liền với thực tiễn. Những đề xuất của bài báo có thể chưa thật sự là giải pháp tốt nhất nhưng nhóm tác giả cũng hy vọng những giải pháp, những đề xuất này sẽ giúp nhà trường giải quyết được một số khó khăn nhất định và mong rằng nhà trường không chỉ đưa vào áp dụng cho thực tập giữa khóa mà sẽ đưa vào triển khai đối với cả thực tập tốt nghiệp để hoàn thiện một cách có hệ thống.
Tài liệu tham khảo
1. Báocáo Sự phát triển của Hệ thống Giáo dục Đại học, Các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo ngày 29/10/2009.
2. Nguyễn Thị Huệ, “ Giải pháp nâng cao chất lượng thực tập của sinh viên khối ngành kinh tế”, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, 2011.
3. Nguyễn Thúy Phương, “Đề xuất một số biện pháp khắc phục khó khăn trong hướng dẫn sinh viên tham gia kiến tập và thực tập tốt nghiệp”, Kỷ yếu hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, 2011.
4. Lập kế hoạch để đạt được hiệu quả đối với việc tuyển thực tập sinh, Tạp chí HR Focus, Tháng 9/2005, ABI/INFORM Global, trang 7.
5. Castillo, D.E, Khuyến khích sinh viên thực tập tích cực làm việc, Tạp chí Business Mexico, tháng 3/2004, ABI/INFORM Global, trang